Đặt vấn đề
Sự phát triển nhanh chóng của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt của công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)
trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa đã và đang đóng vai trò quan trọng, tác động
tích cực đến mọi lĩnh vực, ngành nghề trong xã hội. Trong đó, các lĩnh vực giáo
dục và đào tạo (GD&ĐT), khoa học và công nghệ (KH&CN) và thông tin -
thư viện (TTTV), đã chịu sự chi phối mạnh mẽ và những ảnh hưởng hết sức sâu sắc từ
các thành tựu của ICT. Có thể nói sự phát triển nhanh
chóng của ICT đã tạo tiền đề và những điều kiện
quan trọng giúp các thư viện ứng dụng các thành tựu của ICT để tiến hành nhiệm
vụ chuẩn hóa, hiện đại hóa, phát triển thư viện số/thư viện điện tử, thực hiện
liên thông, hội nhập trong nước và quốc tế, đáp ứng với nhu cầu cao về cung cấp
thông tin mà xã hội thông tin - nền kinh tế tri thức đặt ra. Bên cạnh đó, nó
cũng đặt ra những thách thức lớn cho hoạt động TTTV. Sự phát triển mạnh mẽ của
ICT là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bùng nổ thông tin ở những
thập niên cuối thế kỷ XX, sự gia tăng đột biến của nguồn thông tin dạng số - loại nguồn tin có rất nhiều
ưu thế trong khả năng chia sẻ, lưu giữ, truyền - trao đổi thông tin kéo theo sự ra đời của các công nghệ mới với sự
xuất hiện của nhiều phương tiện truyền thông, Internet phát triển mạnh mẽ, đã ngày càng thu hút đông đảo một lượng lớn
NDT sử dụng. Sự phát triển của
KH&CN đã làm cho nhu cầu thông tin trong lĩnh vực này ngày một cao hơn, đồng
thời lại mang tính xã hội sâu sắc bởi số lượng người cần được cung cấp thông
tin không ngừng gia tăng. Đây chính là những
thách thức đặt ra cho các thư viện, cơ quan thông tin cần phải có những thay đổi về quy trình, cách
thức tổ chức, cung cấp thông tin để định hướng và lôi cuốn bạn đọc sử dụng
các SP&DV TT -TV, mà mục tiêu cần đạt tới đó là từ chỗ chỉ cung cấp thông
tin một cách thụ động trước nhu cầu
của NDT chuyển sang việc bảo đảm cung cấp thông tin một cách chủ động đến NDT.
Nhằm đáp ứng
với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao thực hiện thành công sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện
giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020. Để đạt được mục tiêu trên, cần đẩy mạnh đổi mới
phương pháp dạy - học, nâng cao chất lượng đào tạo, Nghị quyết nêu rõ: “... Đổi mới phương pháp đào tạo theo
3 tiêu chí: trang bị cách học; phát huy tính chủ động của người học; sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong
hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn
tư liệu trên mạng Internet. Lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình tiên
tiến của các nước”[3]
Hiện nay, các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đang triển
khai phương thức đào tạo theo tín chỉ, một
phương thức đào tạo linh hoạt và mềm dẻo nhằm tạo được sự chủ động tối đa đối với
người học trong việc thực hiện việc học của mình cũng như trong việc tiếp cận,
xử lý thông tin để thu nhận những tri thức cần thiết phục vụ cho học tập,
nghiên cứu. Thực tiễn đổi mới phương thức đào tạo đã làm cho nhu cầu thông tin
nói chung, trong đó có nhu cầu về nguồn học liệu, về nguồn thông tin khoa học ở
người dạy và người học ngày càng cao
hơn, đầy đủ, đa dạng hơn; việc đáp ứng nhu cầu tin cần được cung cấp kịp thời,
thuận lợi, linh hoạt và với chất lượng cao hơn. Do đó, đòi hỏi các trường đại học
cần phải có một hệ thống TTTV phát triển theo xu hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
cần có một hệ thống giáo trình, tài liệu, nguồn thông tin khoa học và hệ thống SP&DVTTTV
đáp ứng nhanh chóng, đầy đủ nhu cầu của người dạy, người học. Vì thế, các
nghiên cứu về đổi mới hoạt động TTTV đáp ứng với những thách thức, yêu cầu mà KH&CN, GD&ĐT đặt ra tại các trường đại học lúc này hết sức cần thiết, mang ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đặt
ra cho các thư viện đại học hiện nay đó là vấn đề phát triển, nâng cao chất lượng
và phát triển hệ thống SP&DVTTTV nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin ngày càng
cao và đa dạng của người dùng tin (NDT), đáp ứng yêu câu đào tạo theo học chế
tín chỉ.
2. Khái lược về sản phẩm & dịch vụ thông tin - thư viện và hoạt động phát
triển sản phẩm & dịch vụ thông tin thư viện ở một số trường đại học tiên tiến
trên thế giới
2.1. Khái lược về sản phẩm & dịch vụ thông tin thư viện
SP&DV TTTV được nghiên cứu, khảo sát từ nhiều góc độ và quan điểm khác
nhau. Chúng được những người làm công tác thông tin - thư viện chuyên nghiệp vừa
nghiên cứu, khảo sát một cách đơn lẻ, tách biệt nhau, nhằm phân tích, so sánh,
tìm ra bản chất và cách thức tạo lập, cải biến, sử dụng; đồng thời chúng lại được
nghiên cứu trong mối quan hệ biện chứng, tương hỗ với nhau trong quá trình tạo
lập và khai thác.
2.1.1. Sản phẩm thông
tin - thư viện
SPTTTV là kết quả của
quá trình xử lý thông tin do cá nhân/tập thể thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu của
NDT. Quá trình lao động để tạo ra sản phẩm là quá trình xử lý thông tin bao gồm:
phân loại, biên mục, định từ khóa, tóm tắt...cũng như quá trình phân tích, tổng
hợp, đánh giá thông tin.
Trong quá trình tạo lập
SPTTTV, yếu tố quan tâm hàng đâu đó là nắm bắt nhu cầu của người dùng tin về sản
phẩm đó. Các cơ quan thông tin, Thư viện phải đặt ra câu hỏi: Sản phẩm xây dựng
để làm gì? Cho ai sử dụng? Hiệu quả sử dụng? Muốn trả lời các câu hỏi đó cần phải
tiến hành nghiên cứu nhu cầu tin, nhu cầu sử dụng các SP&DVTTTV của người
dùng tin
2.1.2. Dịch vụ thông
tin - thư viện
DVTTTV bao gồm những hoạt
động nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin và trao đổi thông tin của người sử dụng
các cơ quan thông tin - thư viện nói chung.
* Một số đặc tính của
DVTTTV:
+
Tính đồng thời:
Việc tạo ra các DVTT và
cung cấp các dịch vụ ấy cho người dùng tin được diễn ra đồng thời.
+
Tính vô hình (intangibility)
DVTTTV không có hình
hài rõ rệt, không thể hình dung trước khi nó bắt đầu, không thể lưu trữ như
hàng hóa hay nhận diện được bằng giác quan. Chính vì vậy khi thực hiện
marketing cho các dịch vụ thông tin, cần tạo cho NDT biết tiềm năng của nó bằng
cách giới thiệu cho họ biết đến các dịch vụ đó.
+
Tính chất không đồng nhất (heterogeneity)
DVTTTV gắn với cá nhân,
/tập thể cung cấp dịch vụ. Chất lượng của dịch vụ phụ thuộc chặt chẽ vào cá
nhân, tập thể thực hiện dịch vụ, bên cạnh đó chất lượng của các dịch vụ thông
tin - thư viện nhiều khi không đồng nhất, yêu cầu của người dùng tin cũng khác
nhau, phong phú, đa dạng, thay đổi theo thời gian.
+
Tính không thể tách rời/chia cắt (inseparability)
Thông thường để thực hiện một dịch
vụ, người cung cấp dịch vụ thường phải tiến hành một số bước hoặc một số thao
tác đi liền với nhau, không thể tách rời nhau để thu được kết quả mà người sử dụng
dịch vụ mong muốn.
Ví dụ: trong dịch vụ tìm kiếm thông tin, để có
thể cung cấp thông tin cần phải thực hiện một số thao tác như: Phân tích nhu cầu,
xác định nguồn, thực hiện quá trình tìm, đánh giá và gửi kết quả tìm.
2.1.3. Hệ thống sản phẩm và dịch vu thông tin
- thư
viện
Hệ thống SP&DVTTTV bao gồn tất cả các phần tử
có quan hệ ràng buộc, tương tác lẫn nhau mà các thư viện, các cơ quan thông tin
cỏ thể cung cấp đến NDT nhằm đáp ủng nhu cầu tin của họ.
Hệ thống SP&DVTT
- TV được tạo nên từ nhiều yểu tổ cấu thành, các yểu tổ này vừa đa dạng và luôn
luôn biến đổi. Quan hệ giữa các yếu tố cấu thành rất chặt chẽ. Mỗi khi có một yểu
tố nào đó của hệ thống thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của nhiều yếu tổ khác,
trong không ít trường hợp có sự chuyển hóa hết sức linh hoạt giữa các yếu tố cấu
thành. Vì thể, cơ quan TT - TV muốn hoạt động hiệu quả toàn diện cần nghiên cứu
phát triển SP&DVTTTV dưới góc độ bao quát toàn hệ thống.
2.2. Hoạt
động phát triển sản phẩm & dịch vụ thông tin thư viện ở một số trường đại học
tiên tiến trên thế giới
Từ khoảng những năm 1980 trở lại đây, dưới tác động của ICT, hoạt động TTTV
ở các trường đại học trên thế giới đã có những đổi mới mạnh mẽ, toàn diện. Các
thành tựu đó, đứng từ phía NDT, chính là sự xuất hiện liên tục các thế hệ
SP&DV TTTV mới và phát triển theo hướng liên kết, tạo lập hệ thống, phục vụ
tốt các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học.
+ LCONZ (Library Consortium of
New Zealand) được thành lập năm 2004, liên kết thư viện của 4 trường đại học:
AUT
University, Victoria University of Wellington,Universityof Waikato,University
of Otago.
Mục tiêu của
LCONZ là nhằm hợp tác trao đổi, phân phối nguồn lực thông tin
và các loại hình dịch vụ thông tin với các trường đại học của New Zealand, nhằm tạo điều kiện cho sinh viên, cán bộ và các nhà nghiên
cứu các trường đại học của New
Zealand có thể truy cập, sử dụng nguồn
tài liệu và các loại hình dịch vụ này.
+ Thư viện đầu mối HKALL ( Hong
Kong Academic Library Link) là một dự án nhằm thúc đẩy hoạt động chia sẻ
nguồn lực thông tin được thực hiện bởi sự liên kết của 8 thư viện của các trường đại học: Chinese University of Hong Kong, City
University, Hong Kong
Baptist University, Hong Kong Institute of Education, Hong Kong
Polytechnic University, Hong Kong University of Science and Technology, Lingnan
University, The University of Hong Kong. HKALL sử dụng chung một phần mềm thư viện điện tử cho các trường thành
viên. HKALL là thư viện đầu mối cho phép tất cả sinh viên và cán bộ của
8 trường đại học tham gia sử dụng tài nguyên và chia sẻ nguồn lực tài liệu với
hơn 5 triệu tài liệu chuyên khảo sẵn có . NDT có thể yêu cầu sử dụng trực tiếp
hoặc mượn về nhà những tài liệu này, NDT có thể đến các thư viện thành viên để
gửi yêu cầu sử dụng tài liệu hoặc tới quầy mượn trả để được thủ thư hướng dẫn chi tiết. HKAL có đường liên kết chi
tiết giúp bạn đọc tìm đến những thư viện thành viên. Mặc dù cách làm này nhiều
nơi trên thế giới đã làm, tuy nhiên HKALL là thư viện đầu mối đầu tiên của
Trung Quốc.
+ Tại
Thư viện ĐH Harvard, mục lục HOLLIS là một bộ CSDL chứa đến trên 9 triệu biểu
ghi, phản ánh trên 15 triệu tài liệu là sách, tạp chí, bản thảo tài liệu chính
phủ, tài liệu nghe nhìn các loại như bản đồ, tài liệu vi dạng, bản ghi nhạc,
ghi âm, tài liệu hình ảnh và các tệp dữ liệu. Các dữ liệu trong CSDL này được cập
nhật liên tục. Để đáp ứng nhu cầu học và nghiên cứu, các thư viện ở đây đã liên
kết với nhiều cơ quan tư liệu, thư viện khác tạo nên các mục lục khác có thể
khai thác tại trường. Ngoài ra, để xác định được các nguồn thông tin số
(e-resources) và các tạp chí dạng số (e-jourrnals) có thể tham vấn và tra cứu tại
HOLLIS
Catalog and E-Research at Harvard Libraries. Khi khai
thác tính năng Harvard's
Cross Catalog Search, bạn đọc sẽ được cung cấp các thức tìm kiếm phối
hợp các loại mục lục hiện có tại Thư viện. Các chuyên gia thư viện sẽ trợ giúp
người dùng các kỹ năng khai thác vầ tìm kiếm cụ thể.
+ Hệ thống quản lí giáo trình
(Course Management System) đã sớm xây dựng và phổ biến trên website của EduTools và sau đó tại rất nhiều trường đại học danh
tiếng trên thế giới. Đây là một trang web được thiết lập định hướng đến
người dùng, lấy nhu cầu của người dùng làm triết lí phát triển của mình.
EduTools đã nỗ lực phát triển đề trở thành một trang web tốt nhất giúp tìm kiếm
và chia sẻ thông tin về hệ thống quản lí giáo trình và các sản phẩm khác. Hướng
phát triển trang web của EduTools luôn tập trung vào việc việc duy trì và phát
triển mối quan hệ chặt chẽ với các nhà cung cấp, các sản phẩm thông tin có liên
quan để không ngừng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao,
trong môi trường đào tạo liên tục biến đổi
với nhịp độ cao. Tại Singapore, EduTools đã hỗ trợ sinh viên, giáo viên và các
bậc phụ huynh liên kết được với nhau để phối hợp với nhau nhằm hướng trao đổi,
học hỏi kinh nghiệm để thực hiện được một cách tốt nhất việc học tập và nghiên
cứu tại trường đại học (http://www.edutools.sg/).
EduTools là một công cụ
rất dễ sử dụng, có thể phù hợp với mọi đối tượng/mục đích sử dụng, cho phép người
dùng có thể thu thập, lựa chọn, phân tích và xác định tầm quan trọng của thông
tin liên quan tới các sản phảm và dịch vụ phục vụ việc học, phản ánh chính sách
về e-learing. Mục đích của EduTools là hỗ trợ đối với cộng đồng những người làm
công tác giáo dục đại học đưa ra được các quyết định thích hợp dựa trên thông
tin về các lĩnh vực:
- Hệ thống quản lí giáo
trình (Course Management System);
- Các dịch vụ sinh viên
(Students Services);
- Chính sách đối với
e-learning (E-learning Policies).
EduTools đã phát triển
nhiều sản phẩm quan trọng hướng đến việc hỗ trợ và phát triển các nguồn học liệu
và dịch vụ trên đó. Ví dụ, hệ thống cung cấp dịch vụ mang tên Blackboad
Learning System với các chức năng:
Cung cấp các công cụ tạo
sản phẩm (bao gồm các sản phẩm cụ thể: Làm bookmark, biểu đồ thời gian, Tìm kiếm
giáo trình, Công cụm tích hợp các nội dung giáo trình/tải các nguồn thông tin
giáo trình, Hướng dẫn và trợ giúp…)
Cung cấp các công cụ
dành cho sinh viên với các sản phẩm cụ thể: Làm việc theo nhóm, Kết nối mạng giữa
những NDT, Hồ sơ sinh viên.
Cung cấp các công cụ quản
lí với các sản phẩm cụ thể: Xác nhận tư cách NDT, Xác nhận quyền sở hữu của
giáo trình, Đăng kí tích hợp, Các dịch vụ của máy chủ.
Cung cấp các công cụ
cung cấp giáo trình với các sản phẩm cụ thể: Các hình thức/phương thức tiến
hành kiểm tra/thi, Quản lí kiểm tra tự động hoá, Hỗ trợ kiểm tra tự động, Chấm
điểm trực tuyến, Phân hạng sách trực tuyến, Quản lí giáo trình, Tìm kiếm các đữ
liệu về việc sử dụng giáo trình của sinh viên.
Cung cấp các công cụ
phát triển nội dung thông tin với các sản phẩm cụ thể: Kiểm soát mức độ; Chia sẻ
nội dung thông tin; Giáo trình hiện được sử dụng; Công cụ thiết kế giáo diện
người dùng; Các chuẩn được sử dụng.
+ Tại Trường đại học thuộc Bang
East Tennessee (ETSU), việc xuất bản các LA/LV dưới dạng
điện tử (Electronic Theses and Dissertation - ETD) đã được thực hiện từ năm
1999. Graduat School (một đối tác hợp tác của ETSU) đã coi việc tạo lập nên các
ấn phẩm điện tử như là một phương pháp để giảm bớt về thời gian và chi phí đối
với sinh viên trong việc xử lí tài liệu và nâng cao hiệu quả khai thác các kết
quả nghiên cứu. Thư viện Sherrod (cũng là một đối tác hợp tác của ETSU) xem việc
liên kết này như một cơ hội để tích hợp việc truy cập đến các LA/LV của ETSU cả
dưới dạng in và dạng số, thu nhận những kinh nghiệm trong việc xây dựng và quản
lí các bộ sưu tập thư viện số và giảm được chi phí liên quan tới các quá trình
lưu giữ, xử lí (biên mục) và cung cấp dịch vụ mượn giữa các thư viện đối với
nguồn tài liệu này. Sau thời gian triển khai thí điểm vào năm 2000, việc xây dựng
và phát triển nguồn tin là các ETD đã trở thành một nội dung hoạt động ổn định,
mang tính pháp lí tại ETSU từ năm 2001. Liên quan tới việc tạo lập nguồn thông
tin các ETD, đầu tiên cần nhắc đến Networked Digital Library of Thesis and
Disertation (NDLTD). Đây là một tổ chức quốc tế có mục đích hỗ trợ việc tiếp
nhận, tạo lập, sử dụng, phổ biến và bảo quản nguồn ETD được hình thành trên cơ
sở các tài liệu gốc dạng in trên thế giới. Hiện tại, NDLTD có 74 thành viên là
các trường đại học, Viện nghiên cứu, cơ quan xuất bản; 3 thành viên là các
consortium.
+
Ngay tại website của Virginia Tech,
tất cả các LA/LV của trường đã được quản lí thông qua các CSDL và đối với
các LA/LV từ năm 1997 đến nay, có thể truy cập toàn văn dưới dạng tệp PDF (có
điều lưu ý là nhiều trong số các tài liệu này chỉ có thể truy cập ngay tại trường).
Cũng tại thư viện của trường, người ta đã xây dựng một OPAC tóm tắt các LA/LV
bao gồm khoảng trên 2 triệu biểu ghi, các LA/LV được phản ánh trong OPAC này là
được thu thập từ Mỹ, Canada, Anh và một số nước Châu Âu khác. Đa số các biểu
ghi này hồi cố đến 1988. Để có thể có được toàn văn các LA/LV, người đọc cần sử
dụng dịch vụ mượn giữa các thư viện (ILL), một dịch vụ đang được triển khai tại
Virginia Tech.cũng như tại những trường đại học có các LA/LV được phản ánh
trong OPAC này. Bên cạnh đó, hệ thống các giáo trình được tổ chức trên một giao
diện để có thể truy cập theo các phương thức tìm theo khoá và tìm theo
trình duyệt danh mục các ngành/môn học.
+
Hệ
thống TTTV đại học Trung Quốc (CALIS) [8] bắt đầu hoạt động từ năm 1998, và
là một hệ thống chia sẻ nguồn lực giữa các thư viện đại học trên phạm vi toàn
Trung Quốc. Như một Tiểu dự án của Dự án 211 [4], nhiệm vụ của nó là phục vụ trực
tiếp các trường đại học – những trường được Chính phủ trung ương bảo đảm ngân
sách hoạt động cho Dự án, bằng việc cung cấp tài liệu và các dịch vụ thông tin
đến người dùng tin qua mạng nghiên cứu và giáo dục Trung Quốc (CERNET) [9].
Cũng trong thời gian này, CALIS cũng tham gia phục vụ người dùng tin trong hệ
thống các trường đại học và cao đẳng khác nếu như người dùng tin có kết nối đến
CERNET. Chính vì thế, CALIS và CERNET được biết đến như 2 hệ thống dịch vụ thông tin của quốc gia trực
tiếp phục vụ các hoạt động nghiên cứu, đào tạo khoa học ở quốc gia này. CALIS
đang sở hữu một hệ thống các CSDL, bao gồm:
- Mục lục liên hợp sách và tạp chí: 150
thành viên đóng góp 1, 4 triệu tên với trên 3 triệu đơn vị lưu trữ.
- Nội dung các tạp chí của Trung Quốc:
28 thành viên đóng góp trên 2 triệu tóm tắt bao quát trên 5.500 tên tạp chí.
- CSDL tóm tắt Luận án và Kỷ yếu Hội nghị
khoa học của Trung Quốc: 85 thành viên đóng góp trên 70.000 tóm tắt.
- Các SDL tiếng Trung Quốc với các chuẩn
thống nhất: 23 thành viên đóng góp 25 CSDL với khoảng 450.000 biểu ghi.
3. Thực trạng việc phát triển sản
phẩm và dịch vụ thông tin trong hệ thống thư viện các trường đại học Việt Nam
hiện nay
3.1.
Đánh giá thực trạng
Trong
hoạt động TTTV, công tác xây dựng, phát triển các SP&DV đóng vai trò quan
trọng. SP&DVTTTV là một hệ thống động, luôn phát triển và biến đổi. Đây
chính là kết quả của quá trình tổ chức, xử lý, bao gói thông tin, là cầu nối giữa
các nguồn thông tin với NDT; công cụ kiểm soát nguồn tin, đồng thời là phương
tiện, phương thức đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng các thư viện, cơ quan
thông tin của NDT. Thông qua hệ thống các SP&DV, các cơ quan TTTV mới có thể
khẳng định trình độ, hiệu quả hoạt động; vai trò cũng như vị trí của mình trong
xã hội.
Thời gian qua, các thư viện đại
học của Việt Nam đã được quan tâm đầu tư
phát triển các SP&DV phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học
và có những bước phát triển mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được,
dễ nhận thấy sự đa dạng, phong phú
về hình thức, nội dung và chất lượng các SP& DV TTTV còn hạn chế; hoạt động marketing chưa được đẩy mạnh để đưa các các sản phẩm và dịch vụ thông tin
- thư viện thân thiện đến tay NDT, tạo thuận lợi cho họ có thể sử dụng mọi lúc,
mọi nơi không phụ thuộc vào không gian, thời gian..
Đặc biệt, việc
phát triển các SP&DV TTTV tại các trường đại học nước ta còn mang đậm tính
chất tự phát, thiếu sự hợp tác liên kết chặt chẽ trong suốt quá trình tạo lập
và khai thác để bảo đảm sự phát triển đó là bền vững và ổn định, do vậy số lượng và chủng loại SP&DV còn
khiêm tốn, chất lượng các SP&DV chưa cao, hiệu quả sử dụng còn hạn chế,
chưa tạo được sức mạnh tập trung, đồng
thời cũng chưa tiết kiệm được công sức và kinh phí đầu tư trong việc phát triển
chúng. Có thể nói cho đến nay, vấn đề
phát triển SP& DV TTTV tại các trường đại học của nước ta vẫn chưa được xem là một nội dung quan trọng.
Thực tế nêu trên dẫn tới các
SP& DV TTTV tại các trường đại học mới chỉ được phát triển một cách rời rạc,
thiếu tính liên kết hệ thống và khả năng tương hỗ với nhau. Để khắc phục những
hạn chế trên, các SP&DV TTTV cần được tổ chức thành một hệ thống tương tác,
liên kết với nhau trong phạm vi từng thư viện, cũng như trong toàn hệ thống thư viện đại học nhằm
nâng cao hiệu quả và giá trị khai thác đối với NDT
3.2. Nguyên nhân
Thực trạng việc SP& DV
TTTV tại các trường đại học mới chỉ được phát triển một cách rời rạc, thiếu
tính liên kết hệ thống và khả năng tương hỗ với nhau, do đó chưa tạo được sức mạnh tập trung trong quá
trình tạo lập, khai thác và sử dụng như hiện nay,do những nguyên nhân cơ bản
sau:
- Chưa có sự quan tâm đúng mức
trong chỉ đạo thực hiện và đầu tư kinh phí của Nhà nước và lãnh đạo các cấp.
Kinh phí đầu tư cho hoạt động thư viện rất hạn hẹp và không ổn định, đây chính
là khó khăn lớn nhất mà hầu hết các thư viện đang gặp phải;
- Chưa có sự thống nhất cao, đồng bộ về chuyên môn và
thực hiện áp dụng các chuẩn nghiệp vụ
thư viện trong công tác xử lý tài liệu để thực hiện liên thông, hội nhập;
- Không đảm bảo về cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin do sự đầu tư thiếu đồng đều giữa các thư viện, sự đầu tư theo kiểu chắp vá thiếu đồng bộ;
- Đội ngũ cán bô có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao, có năng lực để tạo lập và phát triển SP&DV cũng
như việc xây dựng, thực hiện các kế hoạch marketing còn thiếu. Lĩnh vực thông
tin thư viện hiện nay vẫn chưa hấp dẫn để thu hút cán bộ có năng lực vào làm việc;
- Vấn đề đẩy mạnh thực hiện đổi
mới phương pháp dạy - học hiện nay còn
chưa mạnh mẽ, do đó chưa thúc đẩy việc tự học, tự nghiên cứu, làm cho người dạy, người hoc chưa nhận thúc được tầm quan trọng của thư viện. Do
đó, chưa tạo ra động lực thúc đẩy các thư viện phát huy nguồn lực.
- Văn hóa hợp tác giữa các
thư viện chưa cao, chưa xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế hợp tác, quy định về
trách nhiệm, quyền lợi và mức độ tham gia các giao ước thỏa thuận.
4. Các giải
pháp phát triển hệ thống sản
phẩm & dịch
vụ - thông tin thư
viện
Để phát triển
hệ thống SP&DVTTTV phục vụ tốt hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học,
đáp ứng yêu cầu đào tạo theo phương thức tín chỉ, chúng tôi đề xuất một số giải
pháp sau:
4.1. Nâng cao chất lượng các SP&DVTTTV hiện có
- Thư viện cần chú trọng hoàn thiện hơn mục lục trực tuyến OPAC trên cơ sở ứng
dụng phần mềm quản lý thư viện điện tử. Tiếp tục hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng
các CSDL, đặc biệt là CSDL toàn văn.Tăng cường cung cấp thông tin cho cổng
thông tin, Website thư viện. Xây dựng các kênh phản hồi thông tin và tiếp nhận
nhu cầu tin của NDT thông qua website của thư viện.
- Nâng cao chất lượng các DVTTTV hiện có : dịch vụ cung cấp tài liệu theo yêu cấu;
dịch vụ phổ biến thông tin chọn lọc; dịch vụ tìm tin; dịch vụ trao đổi thông
tin; dịch vụ thư viện số; dịch vu mượn tài liêu; dịch vụ sao chép tài liệu; dịch
vụ cung cấp tài liệu đa phương tiện
4.2.Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện
- Tạo
lập các sản phẩm thông tin - thư viện mới
Xây dựng thư mục theo chuyên đề; Xây dựng CSDL học liệu điện tử phục vụ
E-learning; Biên soạn tạp chí tóm tắt...
-
Phát triển dịch vụ
thông tin - thư viện mới
Dịch vụ mượn liên thư viện; Tổ chức dịch vụ
cung cấp thông tin theo chuyên đề; Dịch vụ dịch thuật tài liệu.
-
Nâng cao nguồn lực
thông tin và tăng cường cơ sở vật chất
Nâng cao chất lượng và tăng cường nguồn lực
thông tin của trung tâm; Nâng cao hiệu quả đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc
tạo lập, cung cấp các SP&DV TTTV.
4.3. Chuẩn hóa trong phát triển SP&DV thông tin - thư
viện
Xây dựng và áp dụng các chuẩn xử lý thông tin; Xây dựng
và áp dụng các chuẩn dịch vụ thông tin – thư viện ; Xây dựng và áp dụng các
tiêu chí đánh giá chất lượng SP&DVTTTV; Xây dựng quy trình thu nhận và xử
lý thông tin phản hồi của NDT
4.4. Tăng cường phối hợp liên kết trong tổ chức, sử dụng và khai thác các SP&DV
thông tin- thư viện
Xây dựng và phát triển hệ thống CSDL thư mục
trực tuyến; Tổ chức và triển khai dịch vụ mượn liên thư viện (ILL) dạng số;
Phát triển nguồn học liệu mở; Phát triển và chia sẻ CSDL về luận án, luận văn;
Đẩy mạnh marketing SP & DV thông tin-thư viện
4.5. Nâng cao trình độ cán bộ tổ chức sản phẩm & dịch vụ thông tin -
thư viện và đào tạo người dùng tin
Nâng cao trình độ về các ngành, lĩnh vực khoa học phù hợp với nhiệm vụ phục
vụ; Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học cho đội
ngũ cán bộ; Nâng cao kỹ năng tổ chức sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện
Xây dựng kế hoạch marketing các sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện; Thực
hiện tốt công tác đào tạo và trang bị kiến thức thông tin cho người dùng tin.
4.6.
Các giải pháp hỗ trợ
Tăng cường phát triển
nguồn tài nguyên thông tin; Đảm bảo cơ sở vật chất và công nghệ; Đổi mới quản
lý hoạt động thư viện đại học, xây dựng cơ chế chính sách về tạo lập và phát
triển hệ thống SP&DV TTTV.
Kết luận
Mục đích cần đạt tới của hệ thống SP&DVTTTV không chỉ là vấn đề quan tâm tới việc
gia tăng số lượng và loại hình, mà hướng tới tạo lập các
SP&DV hiện đại,có chất lượng đáp ứng các tiêu chuấn của ngành TTTV đặt ra. Hiệu quả của SP&DV được
đo bằng mức độ đầy đủ, chính xác, cập nhật và thích hợp của thông tin đáp ứng với nhu cầu
thông tin
của NDT. Các thư viện đại học
hiện nay cần có hệ thống SP&DVTTV thân thiện, chất lượng và hiệu quả, cũng
như cần có những chính sách tích cực để
quản lý và phát triển. Việc nghiên cứu nhu cầu tin, tạo lập những
sản phẩm, dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu NDT, là một công việc cần phải được tiến
hành nghiêm túc,
thường xuyên và có kế hoạch, để đảm bảo
sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của hệ thống.
Các SP&DVTTTV cần được tổ
chức thành một hệ thống tương tác, liên kết với nhau trong phạm vi từng thư viện
và trong toàn hệ thống là xu thế tất yếu, nhằm khắc phục hạn chế của mỗi thư viện,
phát huy sức mạnh tổng thể trong sự thống nhất tập trung. Chỉ
có như thế mới hy vọng tạo lập được một hệ thống SP&DVTTTV có chất lượng
cao, thân thiện với NDT và phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa để có
thể chủ động hòa nhập liên thông với các hệ thống SP&DVTTTV trong nước và quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
[1]
Nguyễn
Hữu Hùng (2008), “Một số vấn đề về chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ
thông tin tại Việt Nam”, Tập san Thư viện,
(số 2), tr.1 – 6
[2]
Kết luận số 51-KL/TW kết luận hội nghị lần thứ sáu Ban chấp
hành trung ương Đảng khóa XI về đề án “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành ngày 29/10/2012.
[3]
Nghị
quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ về đổi mới cơ bản,toàn diện giáo dục đại học
Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020, Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 02/11/2005.
[4]
Viện nghiên cứu Trung Quốc (2010), Đổi mới mô hình đào tạo đại học và xây dựng các trường đại
học đẳng cấp quốc tế ở Trung Quốc,http://vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=
Article&aID=195
TIẾNG
ANH
[5]
ACRL Research Planning and Review
Committee, College & Research Libraries (2012) 2012 top ten trends in academic libraries: A review of the trends and
issues affecting academic libraries in higher education, Newsvol. 73 no. 6
311-320.
[6]
Attis D. (2013), Redefining the Academic
Library: Managing the Migration to Digital Information Services,
Looking forward Re-Imagiming the Academic Library’s Role in Teaching, Learning
& Research. Paper 1.
[7]
Budd
J.M. (1998), The Academic Library: Its Context, Its Purpose, and Its
Operation.- Englewood, Colorado: Libraries Unlimited, Inc. 1998. 372 p.
[8]
Website
http://www.calis.edu.cn
[9]
Website
http://www.cernet.edu.cn