Thế giới đang bước đi trên con đường cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và chúng ta đang sống trong thời đại 4.0. Đi cùng cuộc
cách mạng không chỉ là sự thay đổi lớn mang lại các yếu tố tích cực mà còn là
những bước đột phá so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó. Cách mạng
công nghiệp 4.0 diễn ra trên 3 lĩnh vực chính: công nghệ sinh học, kỹ thuật số
và vật lý, trong đó, những yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số được tác động trực tiếp,
còn được gọi là bộ khung của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đó là: trí tuệ
nhân tạo (AI), Internet of Things (IoT) và Big Data.
Trong đó, việc tổ chức, quản lý hoạt động thư
viện không tránh khỏi những tác động từ cuộc cách mạng số và tự động hoá. Vậy
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có những tiến bộ công nghệ nào ảnh hưởng đến
ngành Thư viện? Thư viện Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi số sẽ phải đối
mặt với những thách thức nào? Các Thư viện cơ sơ cần thực hiện những điều kiện
gì để đáp ứng yêu cầu thực tiễn?… đó là những câu hỏi lớn đối với ngành Thư viện
nói chung và Thư viện Nguyễn Thúc Hào Trường Đại học Vinh nói riêng. Ở bài viết
bày, chúng tôi chỉ sơ khai một số nội dung về hoạt động ứng dụng công nghệ
thông tin (CNTT) trong thư viện. Từ đó, góp phần khẳng định vai trò, tầm quan
trọng của CNTT và vận dụng CNTT trong hoạt động của thư viện, đặc biệt là hoạt
động thư viện số.
Nếu như trước đây việc ứng dụng CNTT để tự động
hóa hoạt động thư viện, hướng đến giải bài toán về nghiệp vụ và lấy nghiệp vụ
làm trung tâm thì giai đoạn này với quá trình chuyển đổi số, dữ liệu sẽ là
trung tâm cho mọi hoạt động của thư viện, việc ứng dụng CNTT tập trung giải bài
toán về khai thác dữ liệu và tối ưu hóa quy trình nghiệp vụ. Như vậy, có thể khẳng
định mô hình tập trung, dùng chung hạ tầng, dữ liệu; tích hợp, chia sẻ tài
nguyên thông tin sẽ là phương thức chủ đạo trong ứng dụng CNTT cho ngành thư viện
Việt Nam trong giai đoạn tới.
Việc ứng dụng CNTT nhằm nâng cao năng suất hoạt
động của thư viện nhờ vào tính hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý; đa dạng
hoá sản phẩm, dịch vụ thư viện - thông tin; mở rộng khả năng chia sẻ nguồn tài
nguyên thông tin và nâng cao vai trò, vị trí của thư viện, những thay đổi hay cải
tiến trong thư viện đều phải tính đến nhu cầu và sự thuận lợi cho bạn đọc. Đồng
thời đẩy mạnh, hỗ trợ bạn đọc trong việc tiếp cận, sử dụng thông tin và tăng khả
năng đáp ứng những nhu cầu khác nhau của từng nhóm đối tượng trong cộng đồng phục
vụ.
Ứng dụng CNTT trong thư
viện là sử dụng các trang thiết bị hiện đại, các phần mềm ứng dụng hỗ trợ trong
công việc hàng ngày như: máy chủ và các máy trạm; máy in, máy fax, máy photo,
điện thoại…; hệ thống an ninh thư viện; thiết bị chuyên dụng sử dụng trong hoạt
động nghiệp vụ và không thể thiếu là phần mềm quản lý thư viện. Mạng máy tính
là một phần quan trọng của tự động hoá giúp phân phối và chia sẻ thông tin
nhanh chóng, hiệu quả. Như vậy, nhờ vào khả năng xử lý thông tin nhanh chóng và
chính xác, nâng cao hiệu quả công việc, CNTT được ứng dụng trong hầu hết mọi
hoạt động thư viện như: hoạt động quản lý, văn phòng và nghiệp vụ.
Hoạt động quản lý: Mạng máy tính đã
mang lại nhiều lợi ích trong công tác quản lý thư viện. Với các máy tính được
kết nối với nhau, nguồn thông tin có thể được chia sẻ dễ dàng, trao đổi thông
tin giữa người quản lý với nhân viên được diễn ra nhanh chóng và đảm bảo độ
chính xác cao. Nhờ vào hệ thống thông tin, các phần mềm ứng dụng, việc quản lý
nguồn lực thư viện như cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, nguồn lực thông tin được
tiện lợi, chặt chẽ và hiệu quả hơn.
Hoạt động văn phòng: Gồm các chức năng cơ
bản như: soạn thảo và xử lý văn bản, lập bảng biểu thống kê, báo cáo, quản lý
hồ sơ, văn bản… Sử dụng CNTT trong hoạt động văn phòng giúp quá trình xử lý,
lưu trữ, trao đổi thông tin nhanh và chính xác hơn, đồng thời loại bớt các lỗi
trùng lặp hoặc các thiếu sót vốn rất dễ xuất hiện trong cách thức hoạt động ghi
chép truyền thống.
Hoạt động nghiệp vụ: Gồm tìm kiếm và
bổ sung tài liệu (truyền thống và điện tử), xử lý thông tin và đưa ra phục vụ
bạn đọc; tiến hành xây dựng các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu thông tin
của bạn đọc thư viện. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể, các thư viện sử dụng hệ
thống thông tin tự động hoá từng phần công việc hoặc tự động hoá hoàn toàn
thông qua sử dụng phần mềm tư liệu hay phần mềm quản lý thư viện tích hợp.
Những công việc cụ thể
ứng dụng CNTT trong hoạt động của thư viện bao gồm: Bổ sung; Biên mục; Quản lý
ấn phẩm định kỳ; Quản lý bạn đọc; Bảo quản và lưu trữ tài liệu; Xây dựng sản
phẩm và dịch vụ; Mục lục điện tử; Các trang thông tin điện tử thư viện; Dịch vụ
lưu hành; Mượn liên thư viện; Dịch vụ truy cập Internet; Dịch vụ hướng dẫn bạn
đọc.
Hiện nay, ứng dụng
CNTT tại Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào Trường Đại học Vinh đã
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn về các hoạt động của thư viện. Song song với
nguồn học liệu truyền thống gồm 55919 tên sách (đã được quản lý bằng hệ thống
phần mềm Kipos), Thư viện Nguyễn Thúc Hào có nguồn tài liệu số lên tới 26246
cuốn, được quản lý bằng phần mềm thư viện chuyên dụng và phục vụ bạn đọc khai
thác 24/24. Đồng thời, hiện nay đã kết nối với hệ thống thư viện số dùng chung
của 70 trường đại học, cao đẳng trên cả nước.
Có thể khẳng định: Việc
ứng dụng CNTT đã nâng cao năng suất hoạt động của thư viện, mở rộng khả năng
chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin; nâng cao vai trò, vị trí của thư viện; đẩy
mạnh hoạt động hỗ trợ, phục vụ bạn đọc trong việc tiếp cận, sử dụng thông tin…
Từ đó, góp phần đắc lực trong công tác học tập, giảng dạy, nghiên cứu, đánh
giá, kiểm định chất lượng của Nhà trường (Bài viết có tham khảo một số thông
tin của Thư viện Quốc gia Việt Nam)
Bài: Hoàng Nga & Thúy
Lan