Tóm tắt: Sự phát triển của xã hội thông tin ngày nay, năng lực
thông tin ngày càng trở nên quan trọng đối với sinh viên đại học. Năng lực
thông tin là kỹ năng then
chốt, cần thiết trong việc nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực nào. Đó là điều kiện tiên
quyết cho việc học tập suốt đời và cho phép người học tham gia một cách chủ động,
có phê phán vào nội dung học tập, mở rộng việc nghiên cứu, trở thành người có
khả năng tự định hướng, tự kiểm soát tốt hơn quá trình học của mình. Bài viết
phân tích thực trạng đào tạo năng lực thông tin cho sinh viên đại học và đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao đào tạo năng lực thông tin cho sinh viên đại học
ở Việt Nam như: Xây dựng tiêu chuẩn năng lực thông tin, xây dựng mô hình năng lực
thông tin, xây dựng chương trình giảng dạy năng lực thông tin, phương pháp giảng
dạy, kiểm tra, đánh giá.
Đặt vấn đề
Năng lực thông
tin (NLTT) là một trong những kiến thức và kỹ năng then chốt, cần thiết trong
việc nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực nào. Đó là điều kiện tiên quyết cho việc học tập
suốt đời và cho phép người học tham gia một cách chủ động và có phê phán vào nội
dung học tập và mở rộng việc nghiên cứu, trở thành người có khả năng tự định hướng,
tự kiểm soát tốt hơn quá trình học của mình.
Chất
lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của một trường đại học luôn gắn liền với
chất lượng của thông tin mà các đối tượng tham gia vào các quá trình này - giảng
viên, nhà nghiên cứu, sinh viên - thu thập, khai thác và sử dụng. Trước sự gia
tăng không ngừng của các nguồn thông tin cũng như của các phương tiện truy cập,
tổ chức, lưu trữ và khai thác thông tin đòi hỏi mọi người phải có kiến thức và NLTT.
Do vậy, nâng cao NLTT là một công việc quan trọng đối với sinh viên. Nâng cao NLTT
có thể được thực hiện nhờ vào nỗ lực của mỗi cá nhân bằng việc tự tìm tòi học hỏi.
Nhưng cũng như bất kỳ một hoạt động đào tạo khác, việc nâng cao NLTT nên và cần
được thực hiện một cách bài bản thông qua các khóa đào tạo, huấn luyện với
chương trình, nội dung hoàn chỉnh và do những người có trình độ chuyên nghiệp đảm
trách [Thư viện Trung tâm Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2011].
1. Khái
niệm năng lực thông tin
NLTT là một khái
niệm được định nghĩa khác nhau và còn mới mẻ trong giáo dục nói chung và ngành
TT-TV nói riêng tại Việt Nam. Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về NLTT.
Theo UNESCO (2005): “Năng lực thông tin là sự kết hợp của kiến thức, hiểu biết,
các kỹ năng và thái độ mà mỗi thành viên cần hội tụ đầy đủ trong xã hội thông
tin. Mỗi khi cá nhân có năng lực thì họ sẽ phát triển khả năng lựa chọn, đánh
giá, sử dụng và trình bày thông tin một cách hiệu quả”. Điều này có nghĩa là
người có NLTT phải sử dụng thông tin một cách đạo đức. Việc truy cập, sử dụng
và phổ biến thông tin phải phù hợp với pháp luật. Theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ
ALA (2000): “Năng lực thông tin là khả
năng nhận biết nhu cầu thông tin của bản thân, cũng như khả năng định vị, đánh
giá và sử dụng hiệu quả thông tin tìm được”.
Viện NLTT Ôxtrâylia và New
Zealand thì cho rằng, một người có NLTT là người có khả năng [BundyAlan.
Ed., 2004]: Nhận dạng được nhu cầu
tin của bản thân; Xác định được phạm vi của thông tin mà mình cần; Thẩm định
thông tin và nguồn của chúng một cách tích cực và hiệu quả; Phân loại, lưu trữ,
vận dụng và tái tạo nguồn thông tin được thu thập hay tạo ra; Biến nguồn thông
tin được lựa chọn thành cơ sở tri thức; Sử dụng thông tin vào việc học tập, tạo
tri thức mới, giải quyết vấn đề, và ra quyết định một cách có hiệu quả; Truy cập và sử dụng các nguồn thông tin hợp
pháp và hợp đạo đức; Sử dụng thông tin và tri thức để thực hiện các quyền công
dân và trách nhiệm xã hội; Trải nghiệm
năng lực thông tin như một phần của học tập độc lập cũng như tự học suốt đời.
NLTT trong tiếng Việt đôi khi còn được gọi là kỹ năng thông tin, hiểu biết
thông tin, kiến thức thông tin, tri thức thông tin, phổ biến thông tin, phổ cập
thông tin,... Trong bài viết này chúng tôi xem năng lực thông tin mang tính kỹ
năng thực hành nhiều hơn lý luận Năng lực thông tin ở đây bao gồm kiến thức
(về khai thác, sử dụng, chia sẻ) thông tin + kỹ năng thông tin + thái độ, đạo đức
trong tiếp cận, sử dụng thông tin. Qua tìm
hiểu các tài liệu liên quan, chúng ta có thể thấy rằng hầu hết các tác giả đều
có một điểm chung là xem NLTT là khả năng nhận biết nhu cầu thông tin, khả năng
định vị, tìm kiếm, đánh giá, sử dụng thông tin cũng như thái độ sẵn sàng chia sẻ
thông tin với mọi người.
2. Thực trạng đào tạo năng lực thông tin cho sinh viên đại học ở Việt Nam
Trong việc đào tạo NLTT, vai trò
của các cơ sở đào tạo và các cơ TT-TV là đặc biệt quan trọng. Nếu như coi trường
học là nơi cung cấp cho người học các kiến thức và kỹ năng liên quan đến việc
xác định nhu cầu thông tin, thẩm định và tổng hợp thông tin, thì thư viện chính
là nơi cung cấp các dịch vụ thông tin, đào tạo cho ngươi dùng kỹ năng tìm kiếm
thông tin, xử lý thông tin, sử dụng thông tin đúng pháp luật và hợp đạo đức.
Nói cách khác, hai loại hình cơ quan như trên găn bó với nhau một cách hữu cơ
trong việc trang bị NLTT cho mọi người. Hiệu quả của các chương trình NLTT phụ
thuộc vào sự kết hợp giữa các cơ quan TTTV và các cơ sở đào tạo. Việc triển
khai chương trình NLTT sẽ cần sự phối hợp, hợp tác của nhiều bộ phận, tổ chức
xã hội. Đây vừa là thách thức nhưng cũng vừa là thời cơ để ngành thư viện Việt
Nam khẳng định được vị thế của mình, chứng minh được vai trò quan trọng của
mình trong hệ thống kinh tế - xã hội [Nghiêm Xuân Huy, 2006].
Trong những năm gần đây các trường
đại học ở Việt Nam đã quan tâm đến phát triển NLTT cho sinh viên - xem đó là một
trong những kỹ năng mềm quan trọng trang bị cho sinh viên trước khi tốt nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển NLTT các cơ quan TT-TV trường đại
học đã xây dựng và triển khai và phát triển chương trình năng lực thông tin
(Information Literacy) đến các đối tượng người dùng tin (NDT) như: Các Trung
tâm học liệu: Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế, Đại học Thái
nguyên; Thư viện Đại học Hà Nội, Trung tâm TT-TV Trường Đại học Y tế Công cộng,
Thư viện Đại học Hoa Sen, Trung tâm TT-TV Đại học Quốc gia Hà Nội, Thư viện Trung tâm Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Thư viện Đại học Luật Hà Nội, Thư viện Đại học
Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Trung tâm TT-TV Trường Đại
học Vinh, Trung tâm TT -TV Trường Đại học
Hà Tĩnh,... Các cơ quan thông tin, các thư viện đã triển khai với những nội
dung sau:
2.1. Nội dung đào tạo năng lực
thông tin
Các thư viện chủ yếu tập trung
đào tạo một số nội dung cơ bản như [Đinh Thị Thúy Quỳnh, 2016]:
- Giới thiệu tổng quan thư viện
như: Nguồn tài nguyên thông tin; hệ thống các sản phẩm và dịch vụ; hơ sở vật chất;
nội quy, quy định của thư viện,…
- Hướng dẫn sử dụng thư viện:
Cách thức khai thác các sản phẩm và dịch vụ thông tin có sẵn tại thư viện như hệ
thống mục lục truyền thống, mục lục điện tử (OPAC); nội quy, quy trình khai
thác tài liệu tại thư viện,…
- Hướng dẫn tra cứu thông tin
trên Internet: Giới thiệu tổng quan về Internet và các nguồn thông tin trên
Internet; kỹ thuật tìm kiếm và truy cập thông tin từ các công cụ tìm tin trên Internet
(Google, Google Scholar); các tiêu chí thẩm định nội dung thông tin và chất lượng
nguồn tin trên Internet…
- Hướng dẫn tra cứu thông tin
trên Cơ sở dữ liệu (CSDL) điện tử: Giới thiệu các CSDL và phạm vi thông tin của
CSDL; kỹ thuật tìm kiếm và truy cập thông tin từ công cụ hỗ trợ tìm tin trên
CSDL; các tiêu chí thẩm định nội dung thông tin và chất lượng nguồn tin…
- Hướng dẫn các kỹ năng thông tin
chuyên ngành: Giới thiệu tổng quan về các nguồn tài nguyên thông tin điện tử và
các CSDL khoa học chuyên ngành; kỹ thuật tìm kiếm và truy cập thông tin từ các
công cụ hỗ trợ tìm tin trực tuyến; Hoạch định chiến lược và thực hành tìm kiếm thông
tin theo chuyên đề (bao gồm: Xác định nhu cầu thông tin, chọn nguồn thông tin để
khai thác, tìm hiểu cơ chế hoạt động và chức năng của các nguồn thông tin đó,
triển khai việc định vị và truy cập thông tin, đánh giá lại quy trình để điều
chỉnh và cải tiến chiến lược tìm kiếm); Thẩm định nội dung thông tin và chất lượng
nguồn tin…
Thực tế, đa số các thư viện đang
đào tạo NDT dưới dạng hướng sử dụng thư viện hơn là đào tạo NLTT cho sinh viên
[Dương Thúy Hương, 2011]. Tỷ lệ sinh viên tham gia các khóa học NLTT theo năm học,
sinh năm thứ nhất có tỷ lệ cao nhất với 71.3%, đứng vị trí thứ hai là sinh viên
năm thứ tư là 69.4%. Sinh iên năm thứ năm có tỷ lệ đã theo học các lớp NLTT thấp
nhất so với sinh viên các năm khác (44.7%). Điều đó phản ánh thực tế rằng các
trường đại học thường tổ chức các khóa học giới thiệu về thư viện và hướng dẫn
sử dụng thư viện cho sinh viên năm thứ nhất khi mới nhập trường. Ở thời điểm
này sinh phải làm quen với các dịch vụ và chính sách của thư viện trước khi được
cấp thẻ bạn đọc. Sinh viên năm cuối thường theo học các lớp về kỹ năng trích dẫn,
kỹ năng trình bày thông tin và thẩm định nguồn tin để phục vụ cho việc viết
khóa luận, báo cáo tốt nghiệp hoặc làm đồ án [Trương Đại Lượng, 2015].
2.2. Hình thức đào tạo năng lực thông tin
Công tác đào tạo NLTT đã được các
thư viện các trường đại học chú trọng thường được triển khai dưới ba hình thức:
bắt buộc, theo yêu cầu, kết hợp cả hai phương thức bắt buộc và theo yêu cầu
[Đinh Thị Thúy Quỳnh, 2016], [Dương Thúy Hương, 2011]. Hiện nay, có một số trường
đại học đã đưa chương trình đào tạo NLTT vào chương trình chính khóa áp dụng
cho sinh viên tất cả các ngành học như Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội với môn học “Nhập môn năng lực thông tin”, Trường
Đại học Hà Tĩnh đưa vào môn học bắt buộc “Kỹ năng khai thác thông tin”. Một số
trường đại học lồng ghép chương trình NLTT như Đại học Hà Nội, Đại học Duy Tân...
Đa số các thư viện đại học đào tạo NLTT dưới dạng tập huấn cho sinh viên theo
hình thức bắt buộc và theo yêu cầu. Tùy vào điều kiện thực tế, các thư viện đại
học đã và đang dần hoàn thiện chương trình đào tạo NLTT cho sinh viên phù hợp với
nhu cầu và yêu cầu thực tế của chuẩn đầu ra các chuyên ngành đào tạo của nhà trường.
Các hình thức đào tạo NLTT tại các thư viện khá linh hoạt, tạo điều kiện thuận
lợi để NDT có thể tham gia một cách tích cực nhất [Đinh Thị Thúy Quỳnh, 2016].
2.3. Quy mô tổ chức lớp học
Tùy vào thực tế của các trường đại
học cũng như nhu cầu của sinh viên, các thư viện đã tổ chức các lớp học theo
các hình thức đào tạo khác nhau.
Đối với các lớp tập huấn: Nếu
sinh viên đăng ký theo yêu cầu thì tổ chức lớp học với số lượng từ 40 - 50 sinh
viên. Nếu tập huấn theo dạng bắt buộc thường tổ chức lồng ghép vào tuần sinh hoạt
công dân từ 50 - 100 sinh viên. Cũng có những lớp tập huấn với số lượng khoảng
20 - 30 sinh viên đối với các lớp tập huấn nâng cao. Địa điểm tập huấn NLTT cho
sinh viên hội trường lớn, lớp học, phòng thực hành tin học (tùy vào sinh viên
đăng ký lớp học) [Đinh Thị Thúy Quỳnh, 2016], [Dương Thúy Hương, 2011].
2.4. Phương pháp giảng dạy
Các thư viện đại học cũng đã linh
động trong phương pháp đào tạo NLTT cho sinh viên. Ngoài phương pháp giảng dạy
truyền thống lý thuyết, các khóa đào tạo NLTT đã kết hợp giảng dạy lý thuyết
trình chiếu trên PowPoint với thực hành trên phòng máy tính, tham quan thư viện.
Tuy nhiên, tình trạng giảng viên làm thay, một chiều chuyển tải toàn bộ kiến thức
từ người dạy sang người học là không phù hợp với phương pháp giáo dục hiện đại.
Tình trạng đó chỉ tạo sự ỷ lại, tính thụ động trong học tập, nghiên cứu, không có
khả năng độc lập, sáng tạo trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn và do đó
không đáp ứng được mục tiêu phát triển NLTT cho SV. Kỹ năng nghiệp vụ sư phạm cán
bộ thư viện (CBTV) nói chung và đặc biệt là cán bộ trực tiếp tham gia đào tạo
NLTT cho sinh viên còn nhiều hạn chế vì họ không được đào tạo nghiệp vụ sư phạm;
phương pháp giảng dạy của giảng viên còn lạc hậu [Trương Đại Lương, 2015].
2.5. Đội ngũ tham gia giảng dạy
Theo số liệu khảo sát của tác giả
Trương Đại Lượng (2015), trình độ chuyên môn, của CBTV các trường đại ở Việt Nam cử nhân chiếm tỷ lệ cao nhất với
65%, tiếp đến là trình độ thạc sỹ với 35%. Đa số CBTV được khảo sát đều tốt nghiệp ngành TT-TV với 83%. Tỷ lệ CBTV
được trang bị NLTT trong các thư viện đại học được khảo sát cũng không đều
nhau. Nhóm kỹ năng mà CBTV ít được trang bị nhất là kỹ năng quản lý thông tin
thu thập được với tỷ lệ là 17%. Đứng vị trí thứ hai từ dưới lên là kỹ năng làm
việc nhóm với 26% người trả lời cho biết mình đã được trang bị. Với thực tế này
đa số CBTV đại học ở Việt Nam khó có
thể trở thành người phát triển NLTT tốt trong khi họ không được trang bị những
kiến thức và kỹ năng này [Trương Đại Lượng, 2015].
Công tác đào tạo NLTT tại các thư
viện trường đại học được triển khai khá bài bản và bước đầu đạt được những kết
quả tích cực. Tuy nhiên, trên thực tế triển khai đào tạo NLTT vẫn còn một số hạn
chế như: Nội dung chương trình đào tạo chưa bao quát đầy đủ tất cả về NLTT mà
chủ yếu thiên về hướng dẫn sử dụng thư viện; Trình độ đội ngũ cán bộ tham gia
công tác đào tạo NLTT còn yếu và thiếu. Vì hiện nay, đội ngũ tham gia đào tạo NLTT
chủ yếu là được tuyển chọn từ đội ngũ CBTV, ít có sự tham gia của đội ngũ giảng
viên; Thiếu sự phối hợp với các khoa chuyên ngành trong việc thiết kế và triển
khai chương trình đào tạo kỹ năng thông tin [Đinh Thị Thúy Quỳnh, 2016]; Sự
quan tâm của lãnh đạo các bên liên quan trong nhà trường chưa thực sự quan tâm
đến nội dung và chương trình đào tạo NLTT cho sinh viên.
3. Một số giải pháp nhằm phát triển năng lực thông tin cho sinh viên ở các
trường đại học
3.1. Xây dựng tiêu
chuẩn năng lực thông tin
Các trường đại học
ở Việt Nam đã quen thuộc với các cách hướng dẫn sử dụng thư viện, hướng dẫn tìm
kiếm các nguồn thông tin, chiến lược tìm kiếm thông tin cho sinh viên. Tuy
nhiên, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một tiêu chuẩn riêng nào dành cho NLTT.
Các tiêu chuẩn này có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng không những cho
các trường nói riêng và cho các thư viện đại học nói chung trong việc tạo dựng
được một nền tảng NLTT vững chắc vì chỉ khi có được tiêu chuẩn này chúng ta mới
biết mình đang ở đâu và cần làm gì để đạt tới được những chuẩn đó [Trương Đại
Lượng, 2015].
Trong kỷ nguyên
thông tin, mọi người cần có NLTT để biết cách khai thác và sử dụng hiệu quả
thông tin. Do đó nên xây dựng những tiêu chuẩn NLTT làm căn cứ để đánh giá
trình độ NLTT của các nhóm NDT, nhất là đối với sinh viên. Cần thiết xây dựng một
khung chuẩn quốc gia về NLTT dựa trên những đặc thù về hành vi thông tin và hệ
thống giáo dục của Việt Nam. Khung chuẩn này chính là cơ sở để các cơ quan giáo
dục và đào tạo, cũng như các cơ quan TT-TV có thể xây dựng cho riêng mình những
chương trình NLTT phù hợp. Hơn thế nữa, nó giúp cho việc triển khai NLTT tại các
trường đại học ở Việt Nam trở nên đồng bộ và có hệ thống [Nghiêm Xuân Huy,
2006]. Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu tiêu chuẩn về NLTT của các nước trên thế
giới như: Chuẩn NLTT của Hội Thư viện Đại học và Nghiên cứu Hoa Kỳ ALA (2000); Khung
NLTT của Viện NLTT Ôxtrâylia và New Zealand
[BundyAlan. Ed., 2004]; Mô hình bảy trị cột NLTT của Hiệp hội Thư viện Đại
học, Cao đẳng và Thư viện Quốc gia Anh [SCONUL, 1999]; Chuẩn NLTT gồm các chuẩn
NLTT cụ thể giúp CBTV và giảng viên thiết kế chương trình giảng giạy cũng như
xây dựng thang đánh gia trình độ NLTT của sinh viên [Snelson P. và Stillwell L., 2001]; Tiêu chuẩn NLTT của UNESCO
(2005), Tiêu chuẩn về NLTT trong giáo dục đại học do Thư viện Đại học và Thư viện
nghiên cứu Hoa Kỳ ACRL (2000). Từ các tiêu chuẩn NLTT trên các Thư viện Đại học
ở Việt Nam, đặc biệt là Hội Thư viện Việt Nam cần xem xét và xây dựng các tiêu
chuẩn về NLTT để có thể áp dụng hệ thống thư viện đại học ở Việt Nam.
3.2. Xây dựng mô
hình năng lực thông tin
Từ những thực trạng về phát triển
NLTT của sinh viên còn một số hạn chế như nhận thức của các bên liên quan tham
gia phát triển NLTT, chương trình và nội dung NLTT, hình thức đào tao NLTT, quy
mô đào tạo NLTT, phương pháp giảng dạy, phương pháp học tập và kiểm tra, đánh
giá chúng ta cần xây dựng một mô hình thống nhất để phát triển NLTT sinh viên đại
học ở Việt Nam. Chúng ta có thể tham khảo mô hình NLTT của New Zealand và Ôxtrâylia:
(1) Tầm nhìn về NLTT phải nhất quán với tầm nhìn của trường, (2) Nhấn mạnh NLTT
là cơ sở để tốt nghiệp chính cần có ở mỗi sinh viên, (3) Thiết lập cơ chế chính
thức để giao tiếp và đối thoại thông qua cộng đồng học thuật nhằm ủng hộ NLTT
cũng như việc học tập suốt đời, (4) Hỗ trợ quan điểm về NLTT là trách nhiệm của
tất cả các bộ phận Quản lý trong trường, nhà nghiên cứu, CBTV và các chuyên gia công nghệ thông tin
[Nguyễn Đăng Hà, 2011]. Chúng ta cũng có thể tham khảo mô hình NLTT của tác
Trương Đại Lượng (2015), trong luận án tiến sĩ với đề tài phát triển kiến thức
thông tin cho sinh viên đại học ở Việt Nam đã đưa ra mô hình phát triển NLTT
cho sinh viên. Ở mô hình này, quá trình phát triển NLTT cho sinh viên, CBTV và
giảng viên vừa có tính độc lập, vừa có sự phối hợp. CBTV sẽ đảm nhiệm phát triển
các kỹ năng thư viện cho SV trong khi đó giảng viên sẽ phát triển kỹ năng tư
duy, giải quyết vấn đề cho SV. CBTV chia sẻ kiến thức, kỹ năng thư viện cho giảng
viên trong khi đó giảng viên chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy, kiến thức chuyên
ngành cho CBTV; lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo; lãnh đạo trường đại học; lãnh
đạo phòng đào tạo; lãnh đạo các khoa; lãnh đạo thư viện đại học; giảng viên; CBTV;
sinh viên. Hiện nay, trên thế giới có ba mô hình phát triển NLTT: (1) Mô hình
truyền thống, (2) Mô hình sử dụng mạng sinh viên, (3) Mô hình phối hợp giữa cán
bộ thư viện với giảng viên [Trương Đại Lượng, 2015]. Tư những mô hình trên
chúng ta có thể xây dựng một mô hình NLTT áp dụng rộng rãi trong các trường đại
học ở Việt Nam và đơn vị đứng ra chủ trì sẽ là Liên hiệp Thư viện Việt Nam.
3.3. Xây dựng chương
trình giảng dạy năng lực thông tin
Ở New Zealand và
Ôxtrâylia đã hình thành nên chương trình khung về NLTT bao gồm các nguyên tắc,
tiêu chuẩn và yếu tố để các trường căn cứ vào đó để phát triển chương trình NLTT
phù hợp với mục tiêu và sứ mạng của từng trường. Ngoài ra, Hội đồng các cán bộ
[Nguyễn Đăng Hà, 2011]. Theo tác giả Đỗ Văn Hùng (2006) khi triển khai nội dung
NLTT, chúng ta có thể có những lựa chọn và hướng xây dựng đó là tích hợp NLTT
vào khung chương trình đào tạo; Xây dựng một nội dung NLTT độc lập với chương
trình đào tạo. Và cũng tùy thuộc vào điều kiện thực tế của nhà trường, thư viện
các trường đại học có thể kết hợp hài hòa giữa hai hình thức, chương trình đào
tạo trên, điều kiện hiện tại và phù hợp nhất là cần có sự kết hợp hài hòa giữa
hai hình thức trên [Đỗ Văn Hùng, 2006].
Các chương trình NLTT nên được
tích hợp vào khung chương trình đào tạo dựa trên yêu cầu của trường về đầu ra đối
với sinh viên tốt nghiệp. Chương trình đào tạo cần được triển khai cho các nhóm
đối tượng cụ thể, tích hợp NLTT vào chương trình học tập cho nhóm giảng viên,
nhóm sinh viên (trong đó cho nhóm sinh viên năm nhất, năm 2, 3 và 4). Xây dựng
các chương trình đào tạo NLTT cho sinh viên trong các trường đại học và tổ chức
đào tạo về vấn đề này ngay từ năm đầu tiên bước vào đại học. Ở nhiều nước phát
triển, người ta xây dựng những chương trình đào tạo về NLTT cho sinh viên theo
nhiều cấp độ khác nhau. Đa dạng hóa hóa các hình thức đào tạo như đào tạo trực
tuyến, thường xuyên [Cao Minh Kiểm, 2006].
Gần đây nhóm tác giả Đỗ Vă Hùng
và cộng sự (2018), đã đề xuất nội dung cơ bản chương trình NLTT dành cho sinh
viên đại học ở Việt Nam với với 6 module: (1) Tổng quan về NLTT, (2) Nhận dạng
nhu cầu thông tin, (3) Tìm kiếm và khai thác thông tin, (4) Thẩm định và đánh
giá thông tin, (5) Sử dụng thông tin và phòng tránh đạo văn, (6) Tổ chức thông
tin. Từ các chương trình NLTT trên thế giới và trong nước chúng ta có thể tham
khảo để xây dựng cho khung chương trình NLTT cho sinh viên đại học ở Việt Nam.
3.4. Phương pháp
giảng dạy
Với giảng viên,
họ cần phải nhận thức được muốn nâng cao chất lượng giảng dạy cần phải thay đổi
phương pháp giảng dạy truyền thống bằng phương pháp giảng dạy mới, mà ở đó phát
huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của sinh viên. Đồng thời, họ cần phải hiểu
được sinh viên có NLTT sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận, sử dụng và sáng tạo
tri thức, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. CBTV cần phối hợp với
giảng viên để nắm bắt được nhu cầu thông tin của sinh viên và có hành động cụ
thể để định hướng hướng dẫn sinh viên thỏa mãn được những nhu cầu thông tin. Khi
đề cập đến phương pháp giảng dạy của giảng viên cũng nhiều điều đáng bàn với
hình thức đọc - chép vẫn còn khá phổ biến. Giảng viên phải tích cực tương tác
hai chiều là cung cấp tài liệu cho sinh viên, định hướng cho sinh viên sử dụng
các nguồn tài nguyên thông tin phù hợp với nội dung bài học. Đồng thời, sau quá
trình giao bài, cần phải yêu cầu sinh viên trả bài đầy đủ và có sự đánh giá hay,
giở của sinh viên. [Đỗ Văn Hùng, 2006]. Phương pháp giảng dạy cũng cần phải
nâng cấp và đổi mới nhằm đưa sinh viên trở thành trung tâm của quá trình dạy và
học. Việc dạy và học đang được đổi mới thông qua triết lý lấy sinh viên làm
trung tâm, qua việc hướng vào chỉ tiêu tốt nghiệp, những tương tác nhằm tận dụng
tối đa nguồn thông tin sẵn có và công nghệ thông tin - viễn thông [Nghiêm Xuân
Huy, 2006]. Giảng viên phải nhận thức được tầm quan trọng của NLTT đối với sinh
viên để từ đó có những phương pháp giảng dạy phụ hợp. Khi giảng dạy lấy sinh
viên làm trung tâm thì việc vận dụng các hình thức giảng bài luôn là hướng tiếp
cận giúp sinh viên có hứng thú, ngoài giảng dạy lý thuyết kết hợp với thực
hành, cần vận dụng phương thức đào tạo NLTT trực tuyến dựa trên các nền tảng E-learning.
Giảng viên hướng người học tìm tòi và sáng tạo để vận hành tốt quá trình tự đào
tạo, tự học vơi sự chỉ dẫn của giảng viên đến các nguồn học liệu phù hợp.
3.5. Kiểm tra,
đánh giá
Phương pháp giảng dạy và kiểm tra
đánh giá là hai trong nhiều yếu tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
đào tạo. Phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá trực tiếp tác động đến nhu
cầu NLTT, trình độ NLTT của sinh viên.
Vì vậy, trong quá trình đào tạo
NLTT cho sinh viên thì hình thức kiểm tra hay đánh giá chính thức nào về thành
quả học tập của sinh viên đều có vai trò thúc đẩy phát triển NLTT. Với phương
châm học thế nào thì khi thi, kiểm tra bám sát nội dụng dạy và học. Ngoài ra,
bên cạnh kiểm tra đánh giá, chúng ta cần phải tiến hành khảo sát mức độ hài
lòng của người học bằng các phiếu thăm dò ý kiến. Kết quả điều tra để chúng ta
nhận biết được những điểm mạnh, những điểm yếu để có giải pháp cải tiến chương
trình và nội dung của NLTT đối với sinh viên; đánh giá về trình độ NLTT của
sinh viên. Việc kiếm tra, đánh giá cần bám sát vào các tiêu chuẩn chúng ta đã lựa
chọn cho nội dung và chương trình đào tạo. Ngoài ra, để kiểm tra và đánh giá
NLTT của người học đòi hỏi không chỉ thay đổi về cách thức tổ chức kiểm tra và
đánh giá môn học chuyên ngành nói chung, mà còn yêu cầu xây dựng bộ tiêu chuẩn
và chính sách đánh giá NLTT của sinh viên.
Kết luận
NLTT là một vấn đề có ý nghĩa
quan trọng trong kỷ nguyên thông tin. Đây là một khái niệm đã dần quen thuộc đối
với các trường đại học ở nước ta. Trong những năm gần đây, khi giáo dục đại học
chuyển từ hình thức đào tạo niên chế sang hình thức đào tạo tín chỉ với việc lấy
người học làm trung tâm, chúng ta vẫn nhận thấy sản phẩm đầu ra của các cơ sở
đào tạo phần nhiều là thiếu khả năng thích ứng với môi trường làm việc mới, hiện
tượng tái đào tạo diễn ra khá phổ biến tại các cơ quan tuyển dụng. Có thể thấy
rằng, những người mới tốt nghiệp thường rất hạn chế trong khả năng tiếp cận nguồn
thông tin, tri thức mới, không chủ động trong việc tự nghiên cứu để đào sâu và
mở rộng kiến thức chuyên môn và các kỹ năng mềm cần thiết. Do vậy, hoạt động TT-TV
trong các trường đại học, bên cạnh việc xây dựng cho mình những kế hoạch hoạt động,
loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa
học và học tập của các đối tượng người dùng; cũng cần góp phần cùng nhà trường
trang bị cho họ những kỹ năng và kiến thức để làm chủ thế giới thông tin trong
thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Đó chính là sự tổng hợp những kỹ năng nhận
dạng nhu cầu thông tin của bản thân, định vị nguồn thông tin phù hợp với nhu cầu,
tổ chức nguồn thông tin tìm được một cách hợp lý, thẩm định nguồn thông tin đã
được lựa chọn, sử dụng thông tin đó một cách hiệu quả và hợp pháp; còn được gọi
là NLTT. NLTT được xem là chìa khóa quan trọng mở ra những cơ hội tri thức và
nghề nghiệp cho mỗi cá nhân, góp phần thúc đẩy sự phát triển khoa học, công nghệ
và giáo dục của đất nước [Nghiêm Xuân Huy, 2010].
Ở Việt Nam vấn đề
NLTT đã có những hoạt động đầu tư phát triển NLTT như dự án NLTT trong các thư
viện đại học do UNESCO tài trợ. Để đẩy mạnh hơn nữa công tác nâng cao NLTT cần
thiết phải tiến hành đẩy mạnh hoạt động nâng cao nhận thức về NLTT trong xã hội,
xây dựng những tiêu chuẩn về NLTT để phục vụ cho phát triển nguồn nhân lực, xây
dựng và đẩy mạnh các chương trình đào tạo về NLTT, đa dạng hóa các hình thức
đào tạo về NLTT, tăng cường đào tạo NLTT thông qua hình thức trực tuyến, thường
xuyên, đẩy mạnh đào tạo, nâng cao trình đô NLTT của cán bộ TT-TV chuyên nghiệp,
đặc biệt là huấn luyện kỹ năng đào tạo để họ trở thành những người đào tạo NLTT
chuyên nghiệp [Cao Minh Kiểm, 2006].
ThS.
Trần Dương
Trung
tâm TT-TV, Trường Đại học Hà Tĩnh