XU
HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THÔNG TIN - THƯ VIỆN
TẠI
CÁC THƯ VIỆN ĐẠI
HỌC TRÊN THẾ GIỚI
TS. Vũ Duy Hiệp
Trường Đại
học Vinh
Abstract:
Xu hướng đổi mới hoạt động thông tin – thư viện tại các trường đại học trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học (GDĐH), cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó,
bài viết giới thiệu xu
hướng phát triển các dịch
vụ thông tin - thư viện (DVTTTV) tại các thư viện đại
học trên thế giới.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX trở lại đây, dưới
tác động mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT), hoạt động thông tin - thư viện (TTTV) đã có những bước phát triển mạnh mẽ, các thành tựu đó đứng
từ phía
người dùng tin ( NDT), chính là sự xuất hiện liên tục các loại hình sản
phẩm và dịch vụ thông tin –thư viện (SP&DVTTTV) mới. Cùng với sự xuất hiện một cách phổ biến thư
viện điện tử/ thư
viện số, khi nói tới các
SP&DVTTTV, chủ yếu người ta quan tâm tới các thế hệ SP&DVTTTV mới, trực
tuyến được phát triển trên môi trường mạng, những thế hệ SP&DVTTTV được tạo
lập trên cơ sở ứng dụng các thành
tựu của CNTT&TT một cách sâu sắc và toàn diện. Bài viết tập
trung nghiên cứu xu hướng phát
triển các DVTTTV tại các
thư viện đại học (TVĐH) trên thế giới, trong bối
cảnh đổi mới GDĐH tại các nước, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
1.
Xu hướng đổi mới hoạt động của thư viện
đại học
Bối cảnh xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và đã tác động mạnh mẽ
đến hoạt động TTTV tại các trường đại học. Ban Nghiên cứu quy hoạch và đánh giá của Hiệp hội các thư viện đại học và nghiên cứu
của Mỹ (Association of College and
Research Libraries – ACRL) đã công bố
báo cáo tổng quan về các xu hướng đổi mới hoạt động TTTV nổi bật của thư
viện đại học trên thế giới. Báo cáo năm 2014: Top
trends in academic libraries: A review of the trends and issues affecting
academic libraries in higher education(Các xu hướng phát triển nổi
bật của thư viện đại học: Tổng quan về các xu hướng và vấn đề đối diện với các
thư viện đại học trong giáo dục đại học)[9],
đã trình bày các nội dung cụ thể sau:
(i)
Các xu hướng về dữ liệu (Data) bao gồm: Các sáng kiến mới và cơ hội hợp tác mới
giúp thư viện nâng cao năng lực và hiệu quả kiểm soát dữ liệu; Thư viện chú trọng
sự hợp tác, liên kết với giới nghiên cứu, các trung tâm lưu trữ dữ liệu và các
nhà xuất bản, tạp chí khoa học để có thể sử dụng chung nguồn dữ liệu khổng lồ phục vụ việc học tập, nghiên cứu; Liên kết với
các đối tác khác để tăng khả năng tạo ra cũng như tái sử dụng các dữ liệu khoa
học.
(ii)
Các xu hướng phát triển các dịch vụ được cung cấp và khai thác trên các thiết bị
di động như máy tính bảng, điện thoại di động...
(iii)
Các xu hướng về các hoạt động liên quan tới tính mở trong GDĐH, bao gồm các dịch
vụ truy cập mở (TVĐH hỗ trợ và khuyến khích các dịch vụ hướng tới truy cập mở
nhằm phục vụ việc nghiên cứu và đào tạo tại trường đại học) và giáo dục mở (TVĐH
thực thi các chính sách và biện pháp ưu đãi cho việc phát triển các nguồn lực
thông tin phục vụ giáo dục mở (open educational resources – OERs, ví dụ hỗ trợ
cho việc xuất bản các giáo trình mở...).
(iv)
Các xu hướng về các dịch vụ góp phần tạo nên sự thành công của sinh viên: Thư
viện chú trọng tài trợ, khuyến khích và xác nhận các sáng kiến hữu ích của sinh
viên. Các thư viện chú trọng tới sự phối hợp, hợp tác với các đội ngũ khác
trong trường để cung cấp các loại hình SP&DVTTTV hỗ trợ sinh viên phát triển
các sáng kiến của mình, tạo nên các thành công trong học tập và nghiên cứu khoa
học. Thư viện luôn coi đó là các biểu hiện cụ thể của giá trị của TVĐH.
(v)
Các xu hướng về các dịch vụ hướng tới việc học dựa trên năng lực: TVĐH luôn chú
trọng tới việc hỗ trợ sinh viên trong việc nâng cao kiến thức thông tin nhằm
giúp họ ngày càng bình đẳng hơn trong khai thác, sử dụng thông tin một cách phù
hợp nhất phục vụ việc học tập, nghiên cứu của mình tại trường đại học.
(vi)
Các xu hướng về các dịch vụ liên quan tới trắc lượng các công bố khoa học: TVĐH
phát triển các loại SP&DVTTTV liên
quan đến việc cung cấp các số liệu thống kê đối với công bố khoa học phục vụ việc
đánh giá khoa học, qua đó phục vụ việc đánh giá chất lượngtrường đại học.
(vii)
Các xu hướng phát triển các loại SP&DVTTTV phù hợp với người dùng tin (NDT)
khi họ sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học khác nhau: phương pháp nghiên cứu truyền thống và phương pháp nghiên cứu
khoa học dựa trên các phương tiện số hóa.
D.W.
Lewis trong công trình nghiên cứu: Chiến lược cho thư viện đại học trong 25 năm đầu của thế kỷ 21 [7]
đã phác thảo định hướng hoạt động đối với các TVĐH gồm các nội dung:
- Hoàn tất việc chuyển
dịch từ nguồn tài liệu in sang bộ sưu tập số;
- Thực hiện một cách
có hiệu quả công tác lưu giữ lâu dài đối
với bộ sưu tập in thuộc dạng di sản và sẵn sàng cung cấp các dịch vụ khai thác
nguồn tài liệu đặc biệt này;
- Phát triển theo hướng
tái cấu trúc không gian thư viện để có thể phục vụ một cách linh hoạt việc học
tập của sinh viên. Không ngừng phát triển và sẵn sàng cung cấp các dịch vụ phục
vụ việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập cho người dùng của các thư viện có mối
quan hệ liên kết với thư viện của trường đại học;
- Tổ chức lại các tiện
ích, nguồn tin và các loại hình dịch vụ của thư viện theo hướng tích hợp hài
hòa vào chuỗi hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu.
Môi trường diễn ra chuỗi hoạt động này bao gồm cả hệ thống nguồn nhân lực và
các phương tiện tin học hóa ngày càng được gia tăng. Sự quan tâm đặc biệt cần
được hướng đến cấu trúc và hệ thống thư viện mở, các mô hình thư viện phi tập
trung.
- Chuyển dịch trọng tâm của các bộ sưu tập từ
việc đặt mua tài liệu, bổ sung nguồn tin sang trọng tâm là quản trị nội dung .
Đồng
thời tác giả cũng đưa ra mô hình thư viện
đại học giai đoạn 2005-2025.
Hình 1: Mô hình
thư viện đại học giai đoạn 2005-2025 [7, tr. 420-428]
Xu hướng đổi mới hoạt động của TVĐH
đã đặt ra những yêu cầu đòi hỏi các TVĐH cần phải cung cấp các
DVTTTV có chất lượng cao, thân thiện, đảm bảo tính tương hợp cao với NDT trong
những bối cảnh và điều kiện luôn biến đổi. Theo đó, các TVĐH cần triển khai
hoạt động của mình theo triết lý làm tất cả những gì có thể để thích ứng và đáp
ứng cao nhất nhu cầu về thông tin khoa học
phục vụ học tập, nghiên cứu, giảng dạy, gắn kết chặt chẽ với các hoạt động của nhà trường. Không
gian của thư viện được xem như không gian học tập đối với người sử dụng, thư viện
thực hiện các loại hình hoạt động rất khác biệt nhau, miễn là liên quan tới quản
lý và cung cấp việc khai thác, sử dụng thông tin, đáp ứng các loại nhu cầu tin
hình thành từ các hoạt động nghiên cứu và đào tạo tại trường đại học.Trong đó cần
quan tâm tới các loại nhu cầu trao đổi thông tin, tương tác giữa người học với nhau, giữa người học với
người dạy; tương tác giữa NDT với cán bộ thư viện.TVĐH cần tạo được các công cụ,
phương tiện, đưa ra các phương thức thuận lợi để NDT dễ dàng lựa chọn cho mình
được một bộ sưu tập thích hợp nhất (Just-in-Case Collection), đồng thời, trên
cơ sở phần cốt lõi của bộ sưu tập đó, thư viện triển khai các dịch vụ thông tin
kịp thời và thiết thực nhất đến với họ (Just-in-Time Services) để trợ giúp tốt nhất NDT trong học tập và nghiên cứu [1].
2. Các xu hướng phát triển dịch
vụ thông tin - thư viện nổi bật tại thư việnđại học
2.1. Các dịch vụ được triển khai trên nền tảng nguồn
tin dạng số
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, các thư viện và cơ quan thông tin trên thế giới đều hướng đến xu hướng
thống nhất và chuẩn hóa; phát triển nguồn tin dạng số và dịch vụ trực tuyến; mở rộng liên kết mạng,
trao đổi và chia sẻ nguồn tin, các SP&DVTTTV. Trong công trình nghiên cứu “ Các nền tảng dịch vụ thư viện”, M. Breedingđãđi sâu phân tích mối quan hệ chặt chẽ giữa nguồn tin
và các loại hình dịch vụ thư viện được tạo lập, nghiên cứu cho thấy nguồn lực thông tin (NLTT) là nền tảng để
phát triển DVTTTV
[3, tr. 6]. Ngày nay, NLTT đã có sự phát triển ở mức đột
phá về quy mô và tính chất: Không chỉ kể tới sự phát triển với gia tốc lớn,
cũng như tỷ trọng nguồn tin dạng số, trực tuyến ngày càng tăng, trên phạm vi
toàn cầu, chúng được tập trung lại trong các CSDL trực tuyến do một số doanh
nghiệp thông tin-xuất bản lớn của các nước phát triển cung cấp (Thomson Reuter,
Elsevier, Proquest Central…). Một đặcđiểm dễ nhận thấy khác với trước đây, nguồn tin gốc và các CSDL thư mục
thường được tích hợp/kết nối liên thông với nhau trên môi trường mạng. Chính nền
tảng này đã làm xuất hiện các loạiDVTTTV hiện đại, tạo điều kiện cho NDT khai thác thông
tin một cách thuận lợi, nhanh chóng, đồng thời tạo nên khả năng mới cho các TVĐH
trong việc tạo lập và cung cấp cấp các loại hình SP&DVTTTV.
Tại các TVĐH trên thế giới hiện nay, sự phát triển các dịch vụ dựa trên nguồn tin dạng số, phát
triển trên môi trường mạng là rất phổ biến và đa dạng. Các dịch vụ này không chỉ hướng tới NDT trực tiếp, mà còn là một
trong các phương tiện thiết yếu, quan trọng để
thực hiện sự liên kết, chia sẻ NLTT giữa các TVĐH và với bên ngoài. Trên 300
trường đại học, Viện nghiên cứu của Anh quốc tham gia vào mạng luận án khoa học
trực tuyến (EThOS) đã thực hiện việc cùng liên kết, chia sẻ và khai thác
thông tin lẫn nhau, mà hầu hết trong đó là thực hiện chế độ truy cập mở, toàn văn,
là minh chứng khá rõ nét. Ở
nước ta, Trung tâm học liệu đại học Cần Thơ hiện đang cho phép NDT truy cập tới các tạp chí
khoa học mà đại học Alberta (Canada) có bản quyền khai thác. Những năm gần
đây, nhiều hội thảo, hội nghị quy mô quốc tế, quốc gia được tổ chức ở nước tavề
vấn đề truy cập mở và chia sẻ nguồn lực
đối với các nguồn tài nguyên số là chủ đề luôn được cácnhà quản lý,
nhà nghiên cứu và các TVĐH đặc biệt quan tâm ở nhiều khí cạnh khác nhau [5],
[6].
2.2. Các dịch vụ đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, tích hợp với các hoạt
động nghiên cứu, đào tạo
Các nghiên cứu về SP&DVTTTV đã chỉ rõ, dựa trên tính chất đáp ứng nhu cầu NDT, có thể
chia DVTTTV thành 2 nhóm:nhóm đáp ứng nhu
cầu được cung cấp thông tin và nhóm đáp ứng nhu cầu được trao đổi thông tin. Do
tính chất của hoạt động nghiên cứu,
đào
tạo tại trường đại học đòi hỏi
cao sự hợp tác, liên kết, chia sẻ
toàn diện giữa các cá nhân, tập thể, vì thế các DVTTTV đáp ứng nhu cầu được
trao đổi thông tin ngày càng phát triển. Trong điều kiện đó, việc chuyển đổi các phòng đọc thư viện thành không gian thông tin (không gian
học tập) cho phép NDT tiến
hành các hoạt động phục vụ cho học tập và nghiên cứu là nhiệm
vụ đặt ra đối với các TVĐH. Để
thực hiện được điều đó, các TVĐH đã chú
trọng đến việc triển khai một số DV đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin như Hội
nghị, hội thảo, học/làm việc nhóm với quy mô khác nhau, cũng như TVĐH đã liên kết với đội ngũ giảng viên, để triển khai tại trụ sở thư viện một số hoạt động nhằm gắn kết chặt chẽ
giữa hoạt động thư viện với hoạt động nghiên cứu, đào tạo tại trường đại học. Các tác giả: M.
Booth, S. McDonald và B. Tiffen (Đại học Công nghệ Sydney,
Úc) trong báo cáo khoa học A New Vision for University Libraries:
Towards 2015 khi đề cập về mô hình
chuyển giao dịch vụ mới trong các thư viện cho rằng Web 2.0 và các phương tiện
truyền thông của xã hội đã mở ra một thế giới tương tác trực tuyến, thực hiện
việc chia sẻ và trao đổi thông tin một cách có hiệu quả đối với cả thế giới ảo
(thế giới số) và thế giới thực (tương tác kiểu truyền thống giữa các thực thể,
face-to-face) [2]. Theo hướng phát triển không gian học tập (không gian
thông tin) tại các TVĐH trở thành nơi làm
việc của NDT [1],
[3].
Bên
cạnhđó, những năm gần đây,
tiếp tục với việc phát triển các dịch vụ cung cấp thông tin qua website thư viện, xu hướng sử dụng mạng xã hội(facebook,
twitter…) để thực hiện quá trình trao đổi thông tin giữa TVĐH với NDT đang ngày càng phổ biến. Các công cụ này đã được
sử dụng rộng rãi để tạo nên các diễn đàn trong cộng đồng NDT, với xu thế mở rộng
và làm phong phú thêm các DVTTTV mang tính truyền thống như phổ biến thông tin hiện tại
(CAS), phổ biến thông tin chọn lọc (SDI)…
2.3. Chú trọng triển khai dịch vụ xuất bản tại thư viện đại học
Dịch vụ xuất bản tài liệu khoa học đã có bước phát triển
mới từ khoảng đầu những năm 2000. Như đã giới thiệu ở trên, xu thế một số doanh
nghiệp thông tin-xuất bản lớn của các nước phát triển trên thế giới đang thâu tóm lĩnh vực xuất bản đặc biệt
này,
ban đầu, sự thâu tóm đó xuất hiện
đối với các tạp chí khoa học. Ngay ở nước ta, hai tạp chí khoa học được xếp vào danh sách có uy tín trên
thế giới(Toán học và KH&CN Nano của
Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, năm 2014) cũng nằm trong sự thâu tóm này từ
2013.Việc xuất bản tài liệu khoa học theo mô hình này đã giúp giải quyết tận gốc
rễ vấn đề tiêu chuẩn hóa trong hoạt động thông tin và xuất bản, vì thế đã tạo
tiền đề để các nguồn tin khoa học được liên thông, kết nối với nhau trên phạm
vi toàn cầu, trong đó có sự tích hợp giữa
nguồn tin gốc và hệ thống CSDL thư mục.
Như đã biết, các thư viện trực thuộc các tổ chức nghiên cứu, đào tạo
đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các quy cách mang tính quốc gia (phương pháp trắc lượng thư mục) nhằm thực
hiện các nhiệm vụ thống kê và đánh giá khoa học. Điều đó đã được J.
MacColl phân tích trong nghiên cứu“Vai
trò của thư viện trong đánh giá nghiên cứu trường đại học”[8] cũng như tại
rất nhiều nghiên cứu khác được công bố trong những năm gần đây. Đối với các TVĐH, để đạt được mục đích nguồn tin khoa học
nội sinh của trường đại học thực sự hội nhập được với nguồn tin bên ngoài trên
mọi phạm vi thì điều kiện cần thiết là dịch vụ xuất bản phải được tiến hành
theo các mô hình chung về xuất bản tài liệu khoa học đang phổ biến trên thế giới.
Mô hình chung này chính là, sự tích hợp giữa nguồn tin gốc với CSDL thư mục với cấu trúc sao cho phản ánh được đầy đủ mối
quan hệ qua lại dạng trích dẫn (citing) và được trích dẫn
(cited) giữa các tài liệu khoa học cũng như thực hiện được sự liên kết dữ liệu
giữa các tài liệu này.
Đối tượng triển khai dịch vụ xuất bản tại TVĐH chính là
các bộ phận khác nhau của nguồn tin khoa học nội sinh của mỗi trường đại học,
chủ yếu bao gồm: các luận án, luận văn khoa học; các báo cáo kết quả nghiên cứu
triển khai; các kỷ yếu hội nghị, hội thảo khoa học; các tạp chí khoa học do các
cá nhân, tổ chức của trường đại học tạo lập.
Chắc chắn phát triển dịch vụ xuất bản tại TVĐH sẽ sớm trở
thành hiện thực, cũng như trở thành một triết lý căn bản của sự phát triển nguồn
tin khoa học nội sinh của các thư viện trực thuộc các tổ chức nghiên cứu, đào tạo. Nói
cách khác, xu hướng phát triển DV xuất bản tại các TVĐH là rất rõ rệt, là tương
lai gần của TVĐH [10]. Các TVĐH lớn trên thế giới như Harvard, MIT (Mỹ), Oxford
(Anh)…đã triển khai DV xuất bản để phát triển kho lưu giữa các kết quả nghiên cứu,
đào tạo của mình. Ngay ở nước ta, Trung tâm TTTV -Đại học Quốc
gia Hà Nội cũng đã chú trọng tới dịch vụ này thông qua việc phát triển bộ sưu tập
số Digital Repository dưới chế độ truy cập mở.
2.4. Chú trọng triển khai các loại dịch vụ liên quan tới quản lý
dữ liệu
tham khảo, làm cơ sở để đáp ứng nhu cầu đánh giá khoa học
Đây là một xu hướng phát triển mới và rất nổi bật của các
TVĐH
hiện nay trên thế giới. Dịch vụ này
được quan tâm tới theo 2 hướng: một là cung cấp các trợ giúp và công cụ để NDT
có thể sử dụng được các tiện ích quản lý tham khảotrên môi trường số; hai
là cung cấp các số liệu đáp ứng
nhu cầu đánh giá khoa học thông qua các số liệu thống kê về trích dẫn khoa học
(citation), một dạng cơ bản của trắc lượng thư mục (bibliometrics), trắc lượng
web (webometrics).
Các công cụ quản lý dữ liệutham khảo phổ biến hiện nay được TVĐH cung cấp miễn phí
là EndNote,RefWorks,
Zotero… Tại các website của mình, hầu
hết các TVĐH đều giới thiệu đầy đủ và hướng
dẫn sử dụng, cũng như cho phép NDT tải miễn phí các phần mềm quản lý tham khảo
thư viện. Ở nước ta, DV này cũng đã phổ biến tại một số TVĐH lớn. Tại địa chỉ http://www.lic.vnu.edu.vn đã thường xuyên đưa
ra thông báo về các khóa tập huấn sử dụng phần mềm EEWOWW miễn phí dành cho NDT.
TVĐH Chulalongkorn (Thailand) đã triển khai dịch
vụ cung cấp các chỉ số tác động
(Impact Factor – IF - đối với các tài liệu
khoa học trực tuyến mà thư viện cung cấp) để phục vụ NDT. Ngoài ra, hệ thống thư
viện số trực tuyến các trường đại học
Trung Quốc (CADLIS), đã tạo lập dịch vụ hỗ trợ tham khảo (trong nhóm dịch
vụ tư vấn thông tin) để cung cấp cho
NDT trực tiếp. Ngoài ra, việc kết nối tới các tạp chí khoa học trực tuyến (đặc
biệt là của nước ngoài), thì thông thường NDT cũng đã có thể nhận được các số
liệu về chỉ số IF của tạp chí và của từng tài liệu; khi khai thác các CSDL của
Thomson Reuters, Proquest Central… NDT đều
nhận được các số liệu về trích dẫn khoa học của tài liệu. Đặc biệt, khi truy cập
Scopus, thì các số liệu thống kê về công bố khoa học, trích dẫn
khoa học, được thực
hiện là rất phong phú: đối với mỗi
tài liệu khoa học cụ thể, mỗi tạp chí khoa học ... cho tới số liệu thống kê về
các cộng đồng khoa học, các quốc gia theo các khoảng thời gian khác nhau. Các TVĐH cho phép kết nối tới các CSDL này, chính là cũng đã cung cấp các số liệu thống kê về trích
dẫn phục vụ đánh giá, xếp hạng khoa học của trường đại học [8], [11]. Điều đáng
lưu ý, để TVĐH có thể cung
cấp các số liệu trích dẫn đối với chính các tài liệu thuộc nguồn tin khoa học nội
sinh của mình, việc
quản lý và phát triển nguồn tin này cần phải được áp dụng theo mô hình của các
doanh nghiệp thông tin-xuất bản lớn trên thế giới.
2.5. Đẩy mạnh và đa dạng hóa các dịch vụ hỗ trợ, nâng cao kiến thức thông
tin
Các dịch vụ này được TVĐH chủ động triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau hoặc
lồng ghép với các hoạt động marketing. Các TVĐH đều rất quan tâm tới việc đào tạo
nâng cao kiến thức, năng lực thông tin cho NDT, mở các lớp “Hướng dẫn sử dụng thư
viện” có tài liệu hướng dẫn kèm theo cho sinh
viên, học viên cao học đầu
khóa. Các hỗ trợ này là phong phú, đa dạng, từ việc cung cấp các tài liệu cẩm
nang dạng các câu hỏi thường gặp (FAQ) tại
website thư viện cũng như cung cấp các thông tin
kết nối (điện thoại, e-mail) đến người trực tiếp thực hiện việc hỗ trợ, nâng
cao kiến thức thông tin. Mức độ và tính chất hỗ trợ từ phía thư
viện, ngày càng được hoàn thiện và nâng cao hơn. J. Dorner trong một nghiên cứu
về các mô hình dịch vụ thư viện đã xác định: Thư viện đại học có nhiệm vụ giúp NDT của mình hiểu thật tường tận về
các nguồn thông tin cần thiết và hướng dẫn NDT khai thác được nguồn tin đó một
cách hiệu quả. Người cán bộ thư viện phải đảm nhận việc hướng dẫn NDT về phạm
vi, quy mô của nguồn tin và cách thức sử dụng chúng hợp pháp, hợp lý (fair use), có hiệu quả cao [4, tr.12].
Theo xu hướng này,
đã được triển khai mạnh tại nhiều TVĐH lớn ở nước ta. Tại
Trung tâm TTTV - ĐHQG Hà Nội, việc hỗ trợ, nâng cao kiến thức thông tin được lồng ghép vào nhiệm vụ của cán bộ phục vụ thông tin
theo chủ đề. Bên cạnh đó,
thư viện Trung tâm - ĐHQG Tp.
HCM đã phát hành Cẩm nang khai thác tư liệu khoa học chung cho cả hệ thống từ
năm 2013.
3. Kết luận
Hiện nay, các TVĐH
Việt Nam và trên thế giới đang có những chuyển biến tích cực cùng với sự đổi mới
căn bản, toàn diện của GDĐH, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn
ra mạnh mẽ và quá trình toàn cầu hóa. Ba yếu tố này tác động trực tiếp và sâu
sắc đến
hoạt động TTTV
tại trường đại học, đòi hỏi
các TVĐH cần có sự đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động.
Để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, các TVĐH Việt Nam
cần tạo lập và phát triển các loại hình DVTTTV đa dạng, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu toàn diện về NDT và
nhu cầu tin tại trường đại học; trên cơ sở những kinh nghiệm rút ra qua các mô hình DVTTTV
của các trường đại học tiên tiến nước ngoài. Các DVTTTV cần được phát triển theo xu hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa để chủ động hội nhập, liên thông với bên ngoài trên mọi
phạm vi. Xu thế phát triển mô hình trường đại học nghiên cứu, mô hình đào
tạo từ xa, những yêu cầu trong
kiểm định chất lượng và xếp hạng trường đại học… cũng như phương pháp
giảng dạy kích thích tính tích cực và chủ động của người học đã đòi hỏi và tạo
điều kiện nâng cao vai trò, vị thế của TVĐH. Việc sử dụng các DVTTTV hiện đại, nhất là các dịch vụ trao đổi, chia sẻ thông
tin trên mạng góp phần làm cho tương tác
giữa người dạy - người học được tiến hành hiệu quả hơn trên mọi phương diện.
Tài LIỆU THAM KHẢO